Những vấn đề truyền thống nêu ra liên quan tới Lý trí Lý_trí

Triết học đôi khi được miêu tả như là 1 cuộc sống Lý trí, sử dụng Lý trí của người bình thường nhưng hoạt động để đạt mục đích một cách có quy tắc(consistent) hơn và cũng nỗ lực nhiều hơn. Hai loại vấn đề của Lý trí đã được thảo luận trong một thời gian dài bởi các nhà triết học, chính là xem xét Lý trí về mặt bản thân nó như 1 mục đích của con người hay là tính chất triết học của nó về mặt triết học. Câu hỏi đầu tiên đang được quan tâm là liệu chúng ta có thể tự tin rằng Lý trí có thể đạt tới sự hiểu biết về chân lý(truth) hay không tốt hơn những cách khác không. Một câu hỏi khác là liệu một cuộc sống của Lý trí, một cuộc sống mà mục tiêu của mỗi người được dẫn dắt bởi Lý trí, có thể được hy vọng đạt được 1 cuộc sống hạnh phúc hơn rất nhiều so với các cách sống khác không(Liệu 1 cuộc sống Lý trí có tạo ra sự hiểu biết hay không).

Lý trí và Chân lý, và “nguyên tắc đầu tiên”(“first principle”)

Từ thời cổ đại, 1 câu hỏi đã được đặt ra và vẫn còn được tranh luận liên tiếp đến ngày nay trong các cuộc tranh luận triết học(Cái mà đôi khi  được xem như cuộc tranh luận giữa 2 trường phái triết học là Platon(Platonism) và Aritotle(Aristotelianism) về vai trò của Lý trí trong việc truy tìm chân lý(truth). Con người sử dụng phương pháp lý luận, diễn dịch và quy nạp, để đưa ra một cái kết luận mà họ nghĩ là đúng. Kết luận được rút ra theo cách này được cho là chính xác hơn so với sự nhận thức bằng các giác quan(sense perceptions). Trái lại, Nếu những kết luận mang tính logic này chỉ được xây dựng khởi đầu từ nhận thức cảm tính(sense perceptions), thì hầu hết những kết luận mang tính logic này có thể không bao giờ được nói là chính xác vì nó được xây dựng dựa trên những nhận thức sai lầm giống nhau cái mà họ có được tốt hơn.

Điều này dẫn đến câu hỏi về các loại của “nguyên tắc đầu tiên”(“first principle”), điểm bắt đầu của việc lập luận, là đúng cho 1 người đang cố gắng tìm đến 1 kết luận đúng. Ở Hy Lạp, “nguyên tắc đầu tiên”(“first Principal”) là “archai”, hay “Điểm bắt đầu”(“starting point”), và năng lực dùng để nhận thức họ đôi khi được Platon và Aristotle gọi là “nous”  cái mà có nghĩa gần giống với sự nhận thức(awareness) hay ý thức(consciousness).

Trường phái duy nghiệm(Empiricism)(Đôi khi được gắn cho Aristotle nhưng nó sẽ đúng hơn nếu gắn nó với các triêt gia Anh như là John Lock và David Hume, cũng như triết gia cổ đại tài ba như là Democritus) khẳng định rằng các ấn tượng thông qua giác quan là điểm bắt đầu duy nhất được chấp nhận cho việc lý luận và trong nỗ lực để tìm đến chân lý(truth). Cách tiếp cận này thường dẫn đến 1 kết luận gây tranh cãi đó là tri thức tuyệt đối(absolute knowledge) là không thể đạt được. Trường phái duy tâm(Idealism)(Thường được gắn cho Platon và học phái của ông), tuyên bố rằng có một cái thực tế(reality) cao hơn, ở đó một con người cụ thể có thể trực tiếp đạt được chân lý mà không cần phụ thuộc vào các giác quan trên, và vì vậy, thực tế cao hơn này là 1 nguồn gốc cơ bản của chân lý(truth).

Các triết gia như Plato, Aristotle, Al-Farabi, Avicenna, Averroes, Maimonides, Aquinas và Hegel đôi khi được nói là đã có những tranh luận cho rằng lý trí buộc phải cố định và có thể hiểu được – có thể là bằng phương pháp biện chứng, phân tích hay nghiên cứu. Trong góc nhìn của các triêt gia này, Lý trí là sự kết nối vớiChúa trời hay ít nhất là 1 phần của sự kết nối với Chúa trời. Cách tiếp cận này cho phép các triêt gia tôn giáo như  Thomas Aquinas và  Étienne Gilson cố gắng cho thấy rằng Lý trí và thông điệp của Chúa trời(revelation) là 1 sự hỗ trợ lẫn nhau(compatible). Theo Hegel, “… Suy nghĩ duy nhất mà Triết học mang theo với nó để suy nghĩ về Lịch sử, là khái niệm đơn giản về Lý trí, cái Lý trí đó là vua(Sovereign) của thế giới. Vì vậy, lịch sử của thế giới chỉ ra cho chúng ta 1 quy trình mang tính chất Lý trí”.

Trong thế kỉ 17, thế kỉ của Lý trí, Lý trí luôn được cho là một năng lực chủ quan(subjective faculty), đúng hơn là 1 khả năng lý luận mang tính lý thuyết(pure reason-unaided ability) để xác lập một cái khái niệm(concept). Đối với Descartes, Spinoza và Leibniz, khả năng này có sự kết nối với toán học. Kant thì nỗ lực cho thấy rằng khả năng lý luận này(pure reason) có thể xác lập những khái niệm(thời gian và không gian) cái mà tồn tại thông qua trải nghiệm của con người. Kant thực hiện 1 tranh luận đối chọi với Hume người mà phủ định hoàn toàn việc Lý trí có thể tác động lên kinh nghiệm

Lý trí và tình cảm hay cảm xúc

Sau Platon và Aristotle, Văn học phương Tây(western literature) xem Lý trí như là 1 khả năng để kìm hãm cảm xúc và lòng ham muốn. Triết học khắc kỉ(Stoic philosophy), trái ngược lại, xem tất cả cảm xúc(passion) là xấu. Sau những đánh giá về Lý trí trong thời kì đầu kỉ nguyên Khai sáng, những ham muốn(appetites) rất ít khi được đem ra thảo luận hay gộp chung với cảm xúc. Một vài trường phái thời đại khai sáng đồng tình với trường phái Khắc kỉ(Stoic) cho rằng Lý trí nên là một cái gì đó đối lập với cảm xúc hơn là một cái gì điều khiển nó, trong khi các trường phái khác như Romantics xem cảm xúc như một kẻ điều hành vượt lên Lý trí hay hướng tới một sự loại bỏ Lý trí, vì vậy đối thoại hiện đại(Modern colloquy) là “Tuân theo trái tim bạn”

Lý trí đã được xem như là một nô lệ, hay một người phán xét của cảm xúc(passion), rõ rang nhất là trong các tác phẩm của David Hume, và gần đây hơn là của Freud. Lý luận cái mà cho rằng đối tượng của 1 ham muốn được yêu cầu chỉ bởi Logic được gọi là “rationalization”.

Rousseau lần đầu tiên đề cập, trong tác phẩm Discourse, rằng một cuộc sống của Lý trí và mang tính xã hội(political) là không tự nhiên và có thể gây nguy hiểm cho bản tính(mankind) của con người. Rousseau đưa ra những gì thật sự có thể được nói về những gì là bản tính(mankind) của con người. Những gì khác hơn là Lý trí và xã hội dân sự, “Những gì là phù hợp nhất với cách tổ chức xã hội của ông ấy?”, Rousseau thấy rằng “Có 2 điều căn bản trước Lý trí” trong bản tính tự nhiên của con người. Đầu tiên, chúng ta có 1 sự yếu thích rất lớn đối với hạnh phúc của chính chúng ta(well-being). Thứ 2 chúng ta ghét bỏ sự đau đớn và cái chết của mọi sinh vật sống(sentient being), đặc biệt là đồng loại của chúng ta. Hai dạng cảm xúc mãnh liệt này dẫn dắt chúng ta đến những ham muốn vượt quá khả năng thực hiện của chúng ta. Chúng ta trở nên lệ thuộc vào nhau, dựa trên mối quan hệ của quyền lực và sự kỉ luật(obedience). Điều này đã đẩy con người hoàn toàn sống trong tình trạng nô lệ. Rousseau nói rằng ông hoàn toàn thách thức quan điểm cho rằng tự nhiên không dẫn con người đến với một cuộc sống tốt đẹp. Theo Velkley, Rousseau vạch ra 1 quá trình chặt chẽ của sự tự hoàn thiện mang tính chất Lý trí, nổi bật nhất là các tác phẩm về mặt lập pháp như Khế ước xã hội(Contrat Social) hay giáo dục đạo đức trong tác phẩm Émile. Tất cả đều giống nhau, Rousseau hiểu sự tự hoàn thiện này chỉ là sự cải thiện của 1 hoàn cảnh hoàn toàn không thể chấp nhận được, 1 xã hội bị lệnh lạc về nhận thức và lối sống trong cộng đồng.

Cái xã hội xấu xa này được Rousseau chỉ ra, nó đưa tới việc tạo nên 1 Lý trí phán xét mới của Kant một cách tự do để tạo ra cái tốt và cái xấu. Vì vậy, những điều tốt hay xấu này không được đổ cho tự nhiên hay cho Chúa trời. Trong những cách khác nhau, những nhà triết học Đức sau Kant, và cả những nhà triết học lớn như Nietzsche, Bergson, Husserl, Scheler, và Heidegger, vẫn tiếp tục chú tâm suy nghĩ về những vấn đề của siêu hình học(metaphysic) hay là những nhu cầu của Lý trí. Tầm ảnh hưởng của Rosseau và những nhà triết học này cũng tác động rất lớn đến nghệ thuật và chính trị. Nhiều nhà triết học(như là Nikos Kazantzakis) ca tụng cảm xúc và hạ thấp Lý trí. Trong chủ nghĩa dân tộc(nationalism) đến từ lập luận của Rosseau cho rằng các nhà lý luận thế giới(cosmopolitanism) mang con người cách xa chưa từng có từ trước tới nay với bản tính tự nhiên của nhân loại

Một góc nhìn khác về Lý trí và cảm xúc được đề cập trong cuốn sách xuất bản năm 1994 có nhan đề “Những sai lầm của Descartes” của Antonio Damasio. Trong cuốn sách đó, Damasio đưa ra “giả thuyết Somatic Marker” cái mà tuyên bố rằng cảm xúc điều khiển cách ứng xử và việc đưa ra các quyết định. Damasio tranh luận rằng những cái “somatic markers” này cái mà được hiểu một cách phổ biến như là những cảm xúc tự nhiên(“gut feeling”) là những “tín hiệu trực giác”(“intuitive signals”). Những tín hiệu này điều khiển quá trình đưa ra quyết định theo một cách đặc biệt, những cách này không được đưa ra nếu chỉ có sự góp mặt của Lý trí. Damasio đã tranh luận xa hơn khi cho rằng Lý trí phụ thuộc vào những cảm xúc ban đầu(emotional input) để thực hiện chức năng của mình

Lý trí và Đức tin hay tục lệ truyền thống

Có rất nhiều tục lệ truyền thống mang tính tôn giáo, một vài trong số đó có tinh thần chống đối hoàn toàn với Lý trí(fideist) và một số khác thừa nhận Lý trí ở các mức độ khác nhau. Những nhà phê bình vô thần đôi khi tuyên bố rằng những người sùng đạo những người mà không tin tưởng Lý trí là 1 người sai lầm. Vì vậy, họ cho rằng những người sùng đạo này phạm trong việc bỏ qua, đàn áp hay là ngăn cấm một vài hoạt động Lý trí liên quan đến các chủ đề như là những tín điều tôn giáo, những giới luật đạo đức,…). Mặc dù các hệ tư tưởng và tôn giáo như là phái 1 Chúa cổ điển(classical monotheism) không tuyên bố một cách thông thường là không tin tưởng Lý trí, một mặt, luôn có 1 sự xung đột mang tính nhận thức hay tình trạng căng thẳng giữa Đức tin và tục lệ truyền thống, và mặt khác là Lý trí như như là 1 nguồn sức chiến đấu tiềm ẩn của trí tuệ, luật pháp và chân lý.

Những tín đồ tôn giáo(Religious adherents) đôi khi đáp trả bằng cách tranh luận rằng Đức tin(faith) và Lý trí có thể được thỏa hiệp hay là nó có những khu vực xem xét không trùng nhau, hay các nhà phê bình cố gắng hòa hợp trong sự chống đối Lý trí:

Sự hòa giải(Reconciliation): Triết gia Alvin Plantinga tranh luận rằng không có 1 mâu thuẫn quá lớn giữa Lý trí thuyết hữu thần cổ điển(classical theism) vì thuyết hữu thần cổ điển(classical theism) giải thích(trong số các việc khác) tại sao vũ trụ có thể được hiểu và tại sao Lý trí có thể giúp chúng ta hiểu nó một cách thành công

Quyền lực riêng(Non-overlapping magisterial): nhà sinh vật học tiến hóa Stephen Jay Gould tranh luận rằng không cần có sự mâu thuẫn giửa Lý trí và niềm tin tôn giáo vì họ có những trách nhiệm khác nhau trong khu vực xem xét của họ(hay còn được gọi là “magisterium”). Ví dụ, có lẽ 1 mình Lý trí là không đủ để giải thích những câu hỏi lớn như là nguồn gốc của Vũ trụ, nguồn gốc của sự sống, nguồn gốc của ý thức, những điều căn bản của đạo đức, định mệnh của nhân loại. Nếu vậy, Lý trí có thể làm việc trên những vấn đề mà nó có năng lực để giải quyết trong khi đó các nguồn kiến thức hay tư tưởng khác có thể có năng lực để giải quyết những câu hỏi lớn.

Tu quoque: Những nhà triết học như Alasdair MacIntyre và Charles Taylor tranh luận rằng những nhà phê bình của tôn giáo truyền thống những người mà ủng hộ sự tự do vô thần(secular liberalism) đôi khi phải chịu trách nhiệm cho việc bỏ qua, đàn áp, và ngăn cấm những suy nghĩ mang tính chất Lý trí trong một số chủ đề. Tương tự, Những triết gia của Khoa học như Paul Feyaraband tranh luận rằng các nhà khoa học đôi khi cũng bỏ qua hay che giấu những chứng cứ đối lập với khuôn mẫu lý thuyết có sẵn(paradigm).

Một vài nhà phê bình đã tuyên bố rằng nền văn minh phương Tây(Western civilization) có thể được định nghĩa một cách chắc chắn bởi các bài kiểm tra nghiêm túc về đỉnh điểm của tình trạng mâu thuẫn giữa Lý trí nguyên chất("unaided" reason) và đức tin trong những chân lý được “mặc khải”(“ revealed”) – đại diện là cuộc đối đầu giữa Athens tượng trưng cho Lý trí và Jerusalem tượng trưng cho đức tin. Leo Strauss nói về “1 phương Tây lớn hơn” bao gồm tất cả những khu vực chịu ảnh hưởng của sự xung đột giữa chủ nghĩa duy lý(rationalism) Hy Lạp và sự mặc khải của Abraham, điều này có nghĩa là bao gồm cả những đất nước Hồi giáo. Leo Strauss chịu ảnh hưởng đặc biệt từ triết gia Hồi giáo vĩ đại Al-Farabi. Để xem xét tầm quan trọng của triết học Phương Đông có thể đã tham gia trong cuộc chiến quan trọng này, Strauss nghĩ rằng tốt nhất ông nên xem xét liệu khái niệm “dharma” hay “tao” có đồng nghĩa với “Nature”(theo cách mà chúng ta giải nghĩa khái niệm “physis” theo người Hy Lạp). Theo Strauss, sự bắt đầu của Triết học bao gồm “sự khám phá hay sự sáng tạo của thiên nhiên” và “sự tương đương mang tính chất tiền triết học  của thiên nhiên” thông qua các khái niệm như “custom” hay “ways”, khái niệm này thật sự mang tính phổ quát trong mọi nơi, mọi thời điểm. Khái niệm triết học “thiên nhiên”(“nature”) hay “bản chất”(“natures”) như một cách để hiểu khái niệm “archai”(nguyên tắc căn bản của sự hiểu biết) mang đến 1 sự căng thẳng bất thường giữa một bên là Lý trí, một bên là Đức tin và luật lệ truyền thống.

Mặc dù có 1 lịch sử đầy biến cố về những cuộc tranh luận liên quan đến Lý trí và Đức tin trong Đạo Hồi, Thiên Chúa giáo, Đạo Do Thái, nhưng việc tìm kiếm Lý trí đôi khi được cho là ương ứng với sự rèn luyện của các tôn giáo khác của những nới khác, như là đạo Hindu, vì họ không giải nghĩa những giáo lý của họ theo cách quá rõ ràng này

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lý_trí http://cogsci.uwaterloo.ca/Articles/Pages/%7FAbduc... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/346240/p... http://www.merriam-webster.com/dictionary/logic?sh... http://www.merriam-webster.com/dictionary/rational http://www.merriam-webster.com/dictionary/reason http://www.merriam-webster.com/dictionary/reasonab... http://www.sciencedaily.com/releases/2002/01/02013... http://socrates.berkeley.edu/~hdreyfus/rtf/Limits_... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse...